Xem giá trực tuyến
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được chia thành một số nhóm, những người thuộc dòng Đa Minh (Dominic) và Dòng Tên thời truyền giáo thế kỷ 17 và những người bị sát hại trong các cuộc đàn áp Kito giáo vào thế kỷ 19. Cùng tìm hiểu những vị Thánh tử đạo Việt Nam được nhiều người biết đến trong bài viết sau.
Thánh Andrew Dũng-Lạc, người có ngày lễ được tổ chức ngày 24 tháng 11. Ngài đại diện cho sự đau khổ, sự bách hại của hàng trăm nghìn người Công giáo Việt Nam đã chết vì đức tin trong ba thế kỷ qua. Nhiều người Công giáo cũng phải tiếp tục đối mặt với sự đàn áp khi cố gắng thực hành tôn giáo của họ ở Việt Nam thời đó. Ngài là một linh mục giáo phận, tên thật Trần An Dũng, sinh năm 1795 tại miền Bắc Việt Nam.
Năm 12 tuổi, Ngài cùng gia đình chuyển ra Hà Nội để bố mẹ tìm việc làm. Một giáo lý viên ở đó đã cung cấp cho gia đình Ngài thức ăn, nơi ở và giúp Ngài được học hành. Ngài đã làm báp têm (phép rửa tội), chọn tên Thánh là Andrew. Sau đó Ngài làm giáo lý viên, dạy đức tin cho người khác, cuối cùng được chọn để học linh mục. Andrew trở thành linh mục năm 1823, được biết đến như một nhà thuyết giáo hiệu quả, là gương mẫu thánh thiện cho những người Ngài phục vụ. Khi vua Minh Mạng bắt đầu đàn áp các tín đồ Công giáo, Ngài bị bỏ tù nhiều lần, nhưng đã được thả khi giáo dân quyên góp tiền để giúp Ngài mua tự do.
Ra tù, Ngài đổi tên là Andrew Lạc, cũng như chuyển đến vùng khác để tiếp tục giảng dạy. Nhưng lại bị bắt vào năm 1839, cùng với một linh mục khác, Peter Thi – người mà Ngài đã đến để lãnh nhận bí tích hòa giải. Cả hai đều bị đưa về Hà Nội, nơi họ bị tra tấn, bị xử trảm ngày 21 tháng 12 năm 1839.
Thánh Andrew Dũng-Lạc và Thánh Peter Thi được Đức Giáo Hoàng Leo XIII phong chân phước năm 1900, và mãi đến năm 1988, họ cùng 115 vị tử đạo khác của Việt Nam mới được Đức Giáo Hoàng John Paul II phong chức Thánh.
Thánh Agnes Lê Thị Thành (còn gọi là bà Đê) sinh ra ở miền Bắc Việt Nam năm 1781, lấy chồng từ năm 17 tuổi và nuôi 6 người con. Vào thời điểm triều đình luôn cố gắng bắt bớ những người theo đạo Thiên Chúa, trong nhiều năm bà đã giúp che giấu nhiều linh mục Công giáo địa phương, họ phải ở ẩn ngay cả khi đang chuẩn bị các bí tích cho giáo dân. Bà tìm cho họ nơi trú ẩn an toàn, thậm chí giấu họ trong nhà của mình, và giúp họ di chuyển dưới lớp ngụy trang.
Ở tuổi 60, Thánh Agnes bị bắt và bị buộc phải từ bỏ đức tin Công giáo, nhưng bà từ chối. Quan tòa đã ra lệnh đánh đập, làm nhục và bỏ tù bà. Khi người chồng vào tù thăm, ông ấy rất kinh hoàng bởi máu khắp người cùng vết bầm tím nơi bà bị đánh bằng gậy vào chân.
Thánh Agnes nói: “Nhờ những ân sủng của Đức Mẹ, tôi có thể chịu đựng nỗi đau này.” Tiếp đó, những tên cai ngục trói chân bà lại, nhét rắn độc vào trong quần. Bà vô cùng sợ hãi, nhưng bà cầu xin Chúa ban cho mình sự can đảm để có thể giữ vững tinh thần. Khi con gái của Thánh Agnes được phép đến thăm mẹ trong tù, cô bé bắt đầu khóc thương tâm khi nhìn thấy những vết bầm đỏ sẫm của mẹ mình. Bà an ủi con gái rằng: “Con gái của mẹ, đây là những bông hồng đỏ của lòng can đảm”.
Sau cùng, vì kiệt sức, bà qua đời trong tù ngày 12 tháng 7 năm 1841. Đức Giáo hoàng Leo X tôn phong bà lên bậc chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1909 và Đức Thánh Cha John Paul II đã phong chân phước cho bà ngày 19 tháng 6 năm 1988 cùng với 115 vị tử đạo Việt Nam khác.
Thánh Angnes Lê Thị Thành là gương mẫu cho các bà mẹ Công giáo Việt Nam, những người đã dùng lời cầu nguyện cùng lời khuyên để hướng dẫn con cái của họ. Có 2 nhà thờ đã đặt tên bà là Thánh bảo trợ của họ ở Florida và New Orleans.
Thánh Matthew Lê Văn Gẫm sinh năm 1813 dưới triều vua Gia Long, quê ở làng Long Đại, xứ Gò Công, tỉnh Biên Hoà. Ông là con cả trong một gia đình có 5 người con trai cùng 1 người con gái. Được thừa hưởng truyền thống hiếu học sâu sắc từ cha là ông Paul Lê Văn Lại và mẹ là bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm.
Năm 15 tuổi, Mathew Gẫm được cha mẹ cho phép vào chủng viện Lái Thiêu để học linh mục. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, bố mẹ ông đã đến đón về nhà làm việc để giúp đỡ gia đình. Năm 20 tuổi, ông kết hôn, có 4 người con và một cuộc sống gia đình hạnh phúc, yêu thương. Trong những chuyến công tác thường xuyên của mình, Matthew Gẫm từng phải lòng người phụ nữ khác, nhưng sau nhiều lần dằn vặt, ông quyết định cắt đứt mối quan hệ này. Để chuộc lại lỗi lầm, ông dành tình yêu sâu đậm hơn cho vợ cũng như dành nhiều thời gian hơn để giáo dục các con, đặc biệt là dạy chúng các giá trị Cơ đốc giáo. Trong các con của ông, người con lớn nhất và người con út mất vì bạo bệnh, con trai thứ hai bị giết khi tìm cách ngăn chặn vụ đốt nhà thờ Cầu Ngang, người con trai thứ ba bị bỏ tù vì đức tin, bị thiêu sống cùng với nhiều người khác ở Bà Rịa ngày 1/7/1862.
Sự hy sinh vì đức tin của hai con trai ông là kết quả từ những lời dạy Cơ đốc mà Matthew Gẫm đã truyền lại. Với công việc kinh doanh phát triển thuận lợi, ông đã hào phóng giúp đỡ các giáo sĩ, cũng như giành được sự tin tưởng của những người truyền giáo. Thỉnh thoảng ông đến Singapore hoặc Penang-Malaysia để đón các nhà truyền giáo cùng các chủng sinh Việt Nam hoặc chuyển về sách kinh Thánh, các hiện vật tôn giáo. Sau nhiều chuyến đi thành công, cuối cùng vụ việc bị phanh phui, các quan địa phương bắt đầu theo dõi ông sát sao. Năm 1846, Matthew Gẫm chấp nhận yêu cầu đi thuyền sang Singapore đưa Đức cha Dominic Lefebvre Nghĩa, cha sở Duelos Lộ cùng 3 chủng sinh về Sài Gòn. Chuyến trở về vào ngày 23 tháng 5 kéo dài hơn bình thường vì thuyền gặp bão, họ mất 4 ngày để trốn bọn cướp biển. Mãi đến ngày 6 tháng 6, ông mới đến cảng Cần Giờ.
Biết mình là đối tượng bị chính quyền theo dõi, Matthew Gẫm thả neo suốt 2 ngày trời chờ đợi vô ích, sau đó ông quyết định đi thuyền sâu hơn vào Sài Gòn. Đi ngang qua một chốt canh gác, ông gặp phải thuyền tuần tra và đã hối lộ 10 thuyền viên để tránh bị bắt. Tuy nhiên, có 5 thủy thủ trên tàu này sợ bị phát giác hành vi nhận hối lộ nên đã truy đuổi, chặn thuyền của ông lại. Matthew Gẫm kêu gọi các hành khách phản đối việc bắt giữ, tuy nhiên Giám mục Lefebvre Nghĩa không đồng ý với lý do đó là đi ngược lại tinh thần nhân ái của Cơ đốc giáo. Sáng ngày 6/8/1846, ông bị bắt. Vài ngày sau, các quan triệu ông đến tòa án để thẩm vấn, thúc giục phải bước qua thập tự giá. Nhưng ông dũng cảm chịu đựng những cuộc tra tấn. Trước tòa, ông ta khai tên là Lê Văn Bửu trong khi bản án lại ghi tên là Lê Văn Bối. Hai mươi ngày sau, các quan lại đệ đơn lên kinh đô tìm cách xử trảm, nhà vua đã trì hoãn quyết định cho đến năm sau. Trong thời gian chờ đợi, Matthew Gẫm phải chịu đựng những cơn sốt với cùm chân nặng nề, nhưng ông luôn mang trong mình một tinh thần vui vẻ, thanh thản. Sau 7 tháng ngồi tù, bản án tử hình của ông được vua Thiệu Trị phê chuẩn, nhưng vì thời điểm cận Tết nên nhà vua hoãn thi hành.
Năm hết Tết đến, một số quan lại ở thành Gia Định cảm thông với vị thương nhân hiền lành đã kiến nghị nhà vua giảm án tử hình xuống tù chung thân với lý do ngay cả Giám mục cũng không bị xử tử. Khi quân đội hoàng gia bị Pháp đánh bại tại Đà Nẵng vào tháng 3 năm 1847, nhà vua quyết định chống lại yêu cầu của họ.
Ngày 5/11/1849, Thánh Matthew Lê Văn Gẫm bị dẫn đến nơi hành quyết ở Đa Còm (nay là giáo xứ Chợ Đũi, bấy giờ là một phần của giáo xứ Chợ Quán) với sự hiện diện của nhiều người theo đạo Thiên Chúa lẫn người ngoại đạo. Sau khi tiếng cồng vang lên, xúc động trước sự đau khổ của những người đến chứng kiến, tên đao phủ run rẩy phải dùng tới ba lần để xử trảm.
Năm 1870, bà Nhiệm, mẹ của ông đã làm chứng trước tòa án phong chân phước rằng: “Tôi và chồng không cảm thấy đau buồn khi biết tin con trai qua đời. Chúng tôi vui vì sự ra đi của con mình sẽ khiến nó trở thành một vị Thánh.”
Ngày 27/5/1900, Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã phong ông lên bậc chân phước.
Thánh Paul Tống Viết Bường (1782-1833) quê ở Phủ Cam, phục vụ trong đội cận vệ của vua Minh Mạng. Là một người theo đạo Thiên Chúa, ông đã hỗ trợ cho các phái đoàn ngoại giao Paris, do đó đã giúp thúc đẩy sự nghiệp Công giáo trong nước.
Từ khi còn trẻ, Thánh Paul Tống Viết Bường đã được biết đến với tư duy nhanh nhạy. Trong khi tổ chức và bảo vệ một số ngôi làng chống lại những kẻ xâm lược xâm lược, những việc làm dũng cảm của ông đã được Hoàng đế biết đến. Vua Minh Mạng tuyển dụng ông vào đội cận vệ của mình, ngay sau đó phong ông trở thành Pháp quan của đội cận vệ hoàng gia.
Là người thân cận với Hoàng đế, ông thường bị hỏi xem có đi thăm các chùa ở địa phương hay không. Lúc đầu, Paul Bường khéo léo tránh những câu hỏi bằng cách nói nếu không có lệnh của hoàng thượng thì ông không đi thăm các chùa. Sau nhiều lần bị thúc ép, ông thú nhận rằng niềm tin Cơ đốc của mình không cho phép ông đến thăm chùa hoặc thờ cúng các vị thần khác. Vua Minh Mạng vô cùng tức giận, ra lệnh cho trấn thủ, bắt giam ông. Sau đó cho ông phục vụ trong một hộ vệ khác của hoàng gia.
Gia đình ông đã trả tiền cho những lính canh này để Paul Buong được trả tự do. Tại quê nhà, ông lại bị bắt một năm sau đó trong cuộc kiểm tra của Hoàng đế đối với lực lượng vệ binh hoàng gia. Lần này, ông bị tra tấn dã man, nhưng ông không sợ mà ngược lại còn rất hoan nghênh những đau khổ. Cuối cùng, vua Minh Mạng ra lệnh xử trảm Paul Bường và để trưng bày trong quán rượu tại giáo xứ Thọ Đức như một lời cảnh cáo đối với những người Công giáo bất chấp các sắc lệnh của hoàng gia. Đức Giáo Hoàng Leo XIII phong chân phước cho ông ngày 27 tháng 5 năm 1900. Đức Giáo Hoàng John Paul II đã phong Thánh cho ông năm vào 1988 cùng với các vị Thánh tử đạo Việt Nam khác.
Thánh Dominic Phạm Trọng Khảm, sinh năm 1780 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, nay thuộc giáo phận Bùi Chu. Ông là con trai cả của ông bà Phạm Tri Khiêm – một gia đình giàu có trong vùng. Được hưởng sâu sắc bởi các giá trị Thiên Chúa giáo cùng cách nuôi dạy của cha mẹ. Năm 18 tuổi, ông kết hôn với bà Agnes Phượng cũng theo đạo Thiên Chúa. Họ sống rất gương mẫu, đạo đức, tốt lành, gia đình đầm ấm, hoà thuận, yêu thương nhau.
Con trai lớn của ông là Chánh Tổng Phạm Trọng Thìn, được mọi người kính nể, sau cũng anh dũng làm chứng cho Chúa và được phúc tử đạo cùng với cha mình là Thánh Dominic Phạm Trọng Khảm. Các con gái ông là Nhiêu Côn, Nhiêu Trữ, Hậu Địch cũng được học hành tử tế, nổi tiếng hiền lành, khôn ngoan lễ nghĩa.
Là một Cơ đốc nhân sùng đạo, ông luôn giữ vững đức tin của mình. Được giáo dục trở thành một quan tòa, Thánh Dominic Khảm luôn đứng ra bênh vực những người mà ông cho rằng bị buộc tội oan, nhờ vậy ông nổi tiếng khắp vùng là một thẩm phán tốt bụng. Lúc tình hình đang khó khăn vì đạo bị cấm cách, ông thường đón nhận các Giám mục, Linh mục, Thừa sai đến trú ngụ tại nhà mình, đồng thời tìm mọi cách giúp các vị này thi hành mục vụ kín đáo. Khi nghỉ hưu ở tuổi 79, Thánh Dominic Khảm bị chính quyền bắt giữ cùng với hàng trăm người là Cơ đốc nhân. Vì đã lớn tuổi cũng như có địa vị tốt, nên ông không bị đánh đập như những người khác, cũng không bị hành hạ nhịn đói, nhịn khát, đeo xiềng xích khổ cực. Tuy nhiên, ông không từ bỏ đức tin của mình và đề nghị hỗ trợ tinh thần cho các tù nhân khác.
Sau bốn tháng trời thuyết phục bị thất bại không thể làm cho ông lung lay, họ quyết định thi hành án tử hình. Ngày 13 tháng 1 năm 1859, Thánh Dominic Khảm bị giải ra pháp trường. Vì tuổi đã cao còn bị đày đọa trong nhà giam khá lâu nên sức khoẻ ông trở nên bị kiệt quệ. Trước khi tiến ra pháp trường ông đã được cha Lương và cha Duyệt cùng bị tù giải tội và chúc lành cho ông. Xong, ông được tha khỏi xử trảm nhưng phải chịu sự siết cổ.
Sau thời gian dài đau đớn, Thánh Dominic Khảm đã qua đời với tiếng khóc của những người xung quanh. Những người lính đã đốt tay và mặt của ông, như một hành động sỉ nhục cuối cùng, để ông sẽ không tái sinh vào kiếp sau. Những người theo đạo đã di dời xác của ông và đưa trở lại Nhà thờ Đức Mẹ Sầu Bi chôn cất.
Đức Giáo hoàng Pio XII phong chân phước cho ông ngày 29 tháng 4 năm 1851 và Đức Giáo hoàng John Paul II đã phong Thánh cho ông vào năm 1988.
Thánh Michael Hồ Đình Hy sinh năm 1808 tại Nhu Lâm, tỉnh Thừa Thiên trong gia đình Công giáo đạo đức, có tước vị.
Là một người làm quan lớn lại có lòng thống hối, ông để lại một tấm gương thánh thiện, hết lòng vì đạo cho đến những phút cuối của cuộc đời.
Năm 20 tuổi, ông kết hôn với một thiếu nữ cùng đạo ở làng Sơn Công, họ có với nhau 2 người con trai, 3 người con gái. Giống như những Cơ đốc nhân khác vào thời điểm đó, họ thực hành đức tin của mình một cách riêng tư. Năm 21 tuổi, ông được phong hàm đệ ngũ, sau đó được bổ nhiệm làm quan đứng đầu trông coi các nhà máy tơ lụa Hoàng gia. Michael Hồ là một trong số ít các quan chức đáng tin cậy đã đi ra nước ngoài để thực hiện giao dịch với các nước khác như Singapore, Malaysia. Vào đỉnh điểm cuộc đàn áp Cơ đốc giáo, khi con trai cả của ông yêu cầu trở thành một linh mục, ông đã sắp xếp để con học ở Indonesia.
Trong những năm tại vị của nhà vua, ông từng thực hiện nhiều việc thiện nguyện cho những người bất hạnh tại địa phương, cũng như giúp đưa đón những nhà truyền giáo Pháp, Bồ Đào Nha trên các tuyến đường thủy qua khu vực của mình dưới vỏ bọc kinh doanh chính thức. Tư duy nhanh nhạy của Michael Hồ đã giúp các nhà truyền giáo đi xuyên Việt Nam một cách thận trọng và an toàn. Không giống như các Thánh Tử Đạo Việt Nam khác, cuộc đời và việc làm của ông được ghi lại bằng miệng, có thể được tìm thấy trong hồi ký của các linh mục truyền giáo nước ngoài. Đến tuổi nghỉ hưu, ông đệ đơn lên vua Tự Đức xin từ chức. Hoàng đế với lý do trung thành, trung thực đã từ chối việc từ chức của ông, truyền lệnh cho ông ở lại vị trí của mình.
Nhưng sau đó, một thẩm phán địa phương cảm thấy tức giận sau khi Michael Hồ từ chối để ông ta vào nhà máy tơ lụa Hoàng gia, nên kiến nghị với nhà vua về việc bắt giữ ông vì các hoạt động Cơ đốc. Trong thời gian bị giam cầm, tra tấn. Ông đã chơi một ván bài với các quan tòa địa phương bằng cách ký vào bản thú nhận rằng bản thân có liên quan đến chính phủ Pháp – những người sẽ không ủng hộ việc tòa án Việt Nam bắt bớ những người theo đạo Thiên chúa. Giám mục của Hiệp hội Truyền giáo Nước ngoài Paris bí mật yêu cầu ông rút lại lời thú tội vì điều đó chỉ dẫn đến nhiều cuộc đàn áp hơn. Theo chiếu chỉ nhà vua, ông bị xử trảm sau khi bị sỉ nhục trước công chúng, tất cả tài sản đều bị các quan tòa địa phương tịch thu.
Một số nhân chứng kể rằng Thánh Michael Hồ Đình Hy đã từ chối bữa ăn cuối cùng của mình và chọn ra đi gần nơi được sinh ra thay vì tại nơi hành quyết. Ông cũng chọn mặc áo choàng chính thức thay vì trang phục tù nhân vào ngày cuối cuộc đời. Hài cốt của ông được an táng tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam. Ông được linh mục Louis Pallard của Hiệp hội Truyền giáo Nước ngoài Paris thỉnh cầu lên Vatican phong Thánh vào năm 1867. Được Đức Giáo Hoàng Leo XIII phong chân phước năm 1900 tại Fortissimorum Virorum Seriem. Đức Thánh Cha John Paul II đã phong Thánh cho ông năm 1988 cùng với hơn 100 vị Tử Đạo Việt Nam khác.
Thánh Vicent Lê Quang Liêm
Thánh Vicent Lê Quang Liêm sinh năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ, huyện Phú Nhai, tỉnh Nam Định. Song thân là ông Anthony và bà Monica Thiều Đạo. Có lẽ do lúc sinh ra không được khoẻ mạnh nên mẹ ông đã rửa tội và đặt cho ông tên Thánh là Vincent.
Năm 1744, ở tuổi 12, Vincent Liêm gia nhập chủng viện ở Lục Thủy. Nhận ra tài năng thông minh và lòng đạo đức của ông, linh mục Espinosa Huy đã gửi ông đến học tại St. John Lateran ở Manila, Philippines. Theo học dòng Dominic ngày 09 tháng 9 năm 1753. Một năm sau ông đi tu, chọn cho mình cái tên Vincent Liêm de la Paz, nghĩa là “Vincent Liêm của hoà bình”. Ông tiếp tục theo học thần học tại đại học Santo Tomás trong 4 năm tiếp theo và được thụ phong linh mục năm 1758. Ngày 03 tháng 10 cùng năm, ông lên tàu trở về nhà để bắt đầu sứ vụ của mình.
Thánh Vincent Lê Quang Liêm đã phục vụ dân tộc của mình trong 14 năm với tư cách là giáo sư chủng viện, cũng như linh mục. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là giảng dạy tại chủng viện Trung Linh. Sau đó phục vụ tại nhiều giáo xứ như Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Lao, Lai Ổn. Vào ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi 2 tháng 10 năm 1773, trong khi đang trực tiếp truyền giáo tại Lương Đống (Thái Bình) thì ông bị bắt và đã gặp linh mục Jacinto Castaneda trong tù ở đó.
Ngày 20 tháng 10 năm 1773, cả hai linh mục dòng Dominic buộc phải mang một cái ách có khắc bốn chữ “Hoa Lang Đạo Sư” rồi bị đày ra Thăng Long. Trong thời gian này, lịch sử Giáo hội Bắc Hà đã ghi lại một cuộc tranh luận quan trọng giữa 4 tôn giáo lớn: Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo, Công giáo. Nội dung cuộc tranh luận được viết trong cuốn sách nhỏ có tựa đề: “Hội Đồng Tứ Giáo”. Hội đồng này do một quan của chúa Trịnh Sâm gọi ra. Cuộc tranh luận kéo dài trong 3 ngày.
Hai linh mục đều bị áp giải đến pháp trường Đồng Mỗ để bị trảm. Khi trống chiêng vang lên, đao phủ liền hành quyết cha Vincent Liêm cùng cha Jacinto Castaneda.
Ngày hôm đó hai linh mục dòng Dominic, một người bản xứ, một người nước ngoài đã làm chứng cho Chúa Jesus bằng chính cuộc đời họ. Có lẽ cha Vincent Liêm là giáo sĩ Việt Nam đầu tiên và là linh mục dòng Dominic Việt Nam đầu tiên đổ máu vì đức tin. Các anh chị em Dòng Dominic Việt Nam rất tự hào được coi ông là bổn mạng của mình. Đức Giáo hoàng Pio X đã phong chân phước cho cha Vincent Liem cùng với cha Jacinto Castaneda ngày 15 tháng 4 năm 1906. Giáo hoàng John Paul II phong Thánh cho họ ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Thánh Joseph Trần Văn Tuân (1825-1859) sinh tại Diên Nam, tỉnh Nam Định, nay thuộc giáo phận Bùi Chu. Ông sống bằng nghề nông, làm ruộng, trồng lúa. Dù cuộc sống khó khăn nhưng gia đình ông là những tín đồ Công giáo sùng đạo, không bao giờ bỏ lễ hàng ngày cũng như lần chuỗi Mân Côi mỗi sáng và tối. Joseph Tuân luôn đối xử với mọi người rất lịch sự, hòa nhã, khiêm tốn. Thường quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh.
Tuy nhiên trong thôn xóm có một vài người thấy gia đình ông được nhiều người thương mến thì sinh lòng ghen ghét. Thêm nữa cũng vì tham giàu có, nên họ nghe theo những lời hứa hẹn của vua quan rằng ai tố cáo các đạo trưởng hoặc những người theo đạo thì sẽ được trọng thưởng vàng bạc. Họ âm thầm đi tố cáo với quan tòa địa phương về các hoạt động Cơ đốc của ông, nói rằng ông không cống hiến chút giá trị nào cho nhà cầm quyền mà chỉ muốn trấn áp các bè phái bản địa hoặc các nhà truyền giáo nước ngoài.
Joseph Tuân bị bắt giải về phủ giam giữt, bị tra tấn, đánh đập rất tàn nhẫn, trên người phải đeo gông cùm, xiềng xích nặng nề, không được ăn uống. Ông bị ép buộc từ bỏ đức tin của mình, đồng thời phải giẫm lên Thánh giá. Nhưng ông đã từ chối và giữ vững đức tin của mình. Cuối cùng thẩm phán địa phương ra lệnh cho xử tử ông. Sau khi Joseph Tuân liên tục bị đến các địa điểm quan sát những vụ hành quyết những các Cơ đốc nhân khác. Ông kêu lên tên của Mẹ Maria cùng Chúa Jesus, xin họ giải thoát cho mình. Thánh Joseph Trần Văn Tuân bị xử tử vào ngày 7 tháng 1 năm 1862. Hài cốt ông được một cặp vợ chồng tốt bụng thu thập, họ trả lại cho gia đình ông để chôn cất theo nghi thức Công giáo.
Đức Giáo hoàng Pio XII đã phong chân phước cho ông ngày 29 tháng 4 năm 1951 và Đức Giáo hoàng John Paul II Thánh cho ông ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Máu của các Thánh tử đạo là mầm mống của những Cơ đốc nhân mới. Các vị tử đạo Việt Nam mà Giáo hội Công giáo mừng kính hôm nay nhắc nhở giáo dân của họ về niềm tin Kito đã được sống động và truyền đi qua nhiều thế kỷ nhờ gương sáng từ nhiều nhân chứng sáng láng, những người đã chấp nhận hy sinh mạng sống để theo đức tin đến cuối cùng.